SỰ TÍCH VÀ DI TÍCH CẦU BẾN PHÂN - QUẬN GÒ VẤP
(GVQT) – Ai từng đi qua Phường 13 và Phường 15 – Quận Gò Vấp ngày nay đều có thể biết tới tên gọi của một chiếc cầu bắc qua sông Vàm Thuật (còn gọi là rạch Bến Cát – dòng phụ lưu của sông Sài Gòn), đó là Cầu Bến Phân nối đường Thống Nhất – Quận Gò Vấp với đường Tô Ngọc Vân – Quận 12. Vì sao chiếc cầu có tên gọi như vậy và ở đó có những câu chuyện lịch sử đáng kể cho đời sau ra sao? Bài viết này sẽ giải đáp phần nào những điều ấy.
SỰ TÍCH CẦU BẾN PHÂN
Chiếc cầu ngày nay được thiết kế chắc chắn và đúng quy chuẩn giao thông đô thị dành cho đủ mọi loại xe lưu thông hai chiều (với chiều dài 84,2m, rộng 7m) có một cái tên rất mộc mạc, vốn có một hình dáng thô sơ, nhỏ nhắn ban đầu như bao cây cầu miệt vườn Nam Bộ xưa kia nối hai bờ kênh chỉ để giao thương nông thổ sản và các sinh hoạt thôn quê thuần chất…
Thực vậy, cầu Bến Phân ra đời theo hình hài ban sơ của Gò Vấp. Sử chép, sau khi những lưu dân đi về phía Nam khai hoang mở đất cách nay hơn 320 năm, Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn Phước Chu “…lấy Nông Nại đặt làm Gia Định Phủ với đất đai mở rộng ngàn dặm…”(1) thì đất Gò Vấp đã có tên trong sổ bộ các xã thôn thuộc Huyện Tân Bình xưa, cách trung tâm Bến Nghé không bao xa, nằm trên vùng đồi gò cao ráo (hơn 11 mét so với mực nước biển), có nước ngọt của dòng Bến Cát nên đã thành nơi thuận tiện để lưu dân dựng làng lập ấp…
Dựa trên điều kiện địa lý tự nhiên và thổ nhưỡng chủ yếu là vùng đất gò và đất triền (diện tích chiếm hơn 70%) khiến cho Gò Vấp thuộc địa hình cao nhất Sài Gòn – Gia Định xưa, tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp đan xen các ngành nghề tiểu thủ công như đúc lư, dệt vải, nhuộm tơ tằm... là những tay nghề vốn có của những lưu dân gốc quê miền Trung đến định cư lập nghiệp đầu tiên. Diện tích còn lại là vùng đất bưng (khoảng 30%) có độ cao 2m trở xuống, nằm dọc vòng cung phía Tây, phía Bắc và một phần phía Đông của Gò Vấp, tiếp giáp với sông Bến Cát, tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp thuần túy, đặc biệt là nơi hình thành sớm nhất làng nghề trồng hoa kiểng cổ bên cạnh chuyên canh nông thổ sản và chăn nuôi gia súc, gia cầm…
Các cụ làng nghề hoa kiểng Gò Vấp từng kể rằng giống hoa huệ, hoa lài, hoa sói, hoa ngâu có hương thơm ngan ngát rất hay được trồng ở cánh đồng bưng rộng lớn. Cụ thể là khu vực đất Xã An Nhơn xưa (Phường 15, 16, 6 và 17 ngày nay), trong đó tập trung nhiều nhất ở khu Ấp Doi tiếp giáp với Xã Thạnh Lộc (Huyện Hóc Môn xưa – Quận 12 nay) chuyên trồng huệ, ngâu, lài, sói dùng trong ướp trà. Ở vùng đồng bưng này thường xuyên bị nhiễm phèn nặng, đất luôn ngậm nước, ẩm ướt quanh năm. Người nông dân ngoài việc trồng cói để lợp nhà, trồng dâu nuôi tằm để dệt vải, trồng rau muống nước và lúa một vụ để có cái ăn… còn phải cực nhọc thường xuyên cải tạo đất bằng cách lên liếp rửa phèn, bón vôi để có thể trồng luân canh thêm các loại nông thổ sản (như mía, khóm, rau đậu…) và các loại hoa cung cấp cho Gia Định, Sài Gòn, Chợ Lớn và khắp các vùng miền...
Trong quy cách sản xuất thuần nông và phát triển làng nghề truyền thống, người nông dân Gò Vấp tận dụng khai thác triệt để chu trình xoay vòng giống cây trồng, vật nuôi để phù hợp sản xuất. Cụ thể như: Muốn có sợi tơ để dệt thành vải thì phải nuôi con tằm. Nguyên liệu để nuôi tằm là lá dâu. Muốn trồng dâu tươi tốt thì phải bón phân và chính phân tằm lại được dùng bón thúc cho cây dâu sinh sôi, nảy nở... Thế là ở ngay đất đồng bưng chuyên canh dâu có một bến sông được dùng chứa phân tằm từ khắp các nơi trong vùng đổ về để tiện lợi canh tác, không chỉ là với cây dâu mà còn với các nông thổ sản khác. Đó chính là khu Ấp Doi ngày nay. Và chiếc cầu bắc qua nhánh sông Vàm Thuật để đi qua Ấp Doi giao thương nông thổ sản được gọi luôn bằng cái tên mộc: CẦU BẾN PHÂN - dễ nhớ, dễ thuộc đường đi lối lại, như kiểu tên gọi “ngã ba Cây Thị”, “ngã năm Hàng Điệp”…
Khi bắc cầu, người người góp công góp sức đẽo gỗ Vắp (vốn mọc nhiều và dày đặc như rừng, chất gỗ lại cứng như thép) để kết lại thành chiếc cầu nhỏ gọn đủ lọt các loại xe ngựa thồ ngược xuôi chạy qua. Về sau, thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ thay nhau xâm lược nước ta đã cho xây thành cầu sắt để phục vụ chiến tranh tàn ác…
DI TÍCH LỊCH SỬ HAI THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CỨU NƯỚC
Ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, chiếc cầu Bến Phân đã trở nên một địa điểm vô cùng nóng bỏng. Ngày 23.9.1945 – ngày Nam Bộ vùng lên kháng chiến, chính tại đây đã hình thành nên một trận địa chặn đánh giặc Pháp cùng lúc với các mặt trận Ga Xóm Thơm, Cầu Hang Dưới, Ngã Ba Chú Ía, Vũng Bèo… theo chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến Tỉnh Gia Định triển khai các tuyến phòng thủ và chặn đánh địch, gây cho giặc nhiều tổn thất. Cầu Bến Phân cũng là một nơi trọng yếu phục vụ cứu thương, tiếp tế cho đồng chí, đồng bào ta trong những ngày tháng sục sôi đánh Pháp.
Đến giữa tháng 12.1945, khi quân Pháp chiếm đóng Thị trấn Gò Vấp thì toàn bộ các cơ quan đầu não của Tỉnh Gia Định và Quận Gò Vấp đã dời về đóng tại xã Thạnh Lộc và An Phú Đông (còn gọi là Cù lao Hanh Phú). Ngày 15.12.1945, để hỗ trợ mở đường cho giặc Pháp tiến vào càn quét, quân Anh - Ấn đã huy động thủy lục không quân tấn công vào Hanh Phú – cơ quan đầu não chỉ đạo kháng chiến của Tỉnh Gia Định, gây thêm tội ác với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta. Trước tình hình đó, ngày 25.12.1945, đồng chí Phạm Văn Khung – Bí thư Tỉnh ủy cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh như Phạm Văn Chiêu, Nguyễn Văn Lượng… đã thống nhất kiên quyết chọn bám trụ tại chính An Phú Đông, xây dựng chiến khu sát cạnh Sài Gòn để kháng chiến cứu nước. Chiến khu An Phú Đông lập tức trở thành ngọn cờ hiệu triệu đồng bào ta kiên cường chiến đấu chống Pháp. Phong trào đầu tiên được phát ra từ Chiến khu là tìm sơ hở của địch để diệt địch, thu vũ khí địch để trang bị cho ta và được sự hưởng ứng rất mạnh mẽ trong bộ đội và đồng bào.
Giặc cay cú và tổ chức ruồng bố gắt gao. Để khủng bố tinh thần đấu tranh của Nhân dân ta, chúng hèn hạ tìm kiếm và bắt bớ các thanh niên ủng hộ kháng chiến rồi đem bắn hàng loạt tại chợ An Nhơn, Vũng Bèo và cầu Bến Phân… Tại chân cầu Bến Phân còn là nơi chúng đem thi thể của các thanh niên vệ quốc đoàn, du kích và bộ đội ta bị bắn chết thả trôi sông…
Ngày 19.12.1946, chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã lan ra cả nước, hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân Sài Gòn – Gia Định và Gò Vấp thà hy sinh chứ nhất định không chịu làm nô lệ, khẳng định cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Cùng với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, đồng bào đồng chí Gò Vấp tích cực sản xuất phục vụ kháng chiến. Chiếc cầu Bến Phân tiếp tục làm nơi trọng yếu phục vụ việc tải lương, tải đạn; tải bộ đội, du kích và đồng bào vượt tuyến ra vào Chiến khu An Phú Đông, trường kỳ kháng chiến cho đến ngày chống Pháp thắng lợi 7.5.1954…
Bước vào kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thấy vị trí của cầu Bến Phân rất lợi hại, bọn giặc ra sức canh phòng, lập chốt tại cầu hòng chia cắt đồng bào ta với Chiến khu. Chúng dùng các loại phương tiện quân sự đường bộ, đường sông và cả đường không thường xuyên hành quân qua lại càn quét vùng đồng bưng, mong chặn mọi tiếp tế của đồng bào với bộ đội và du kích nhưng chúng luôn gặp thất bại thảm hại… Trong muôn trận thua đau của kẻ thù, trận đánh sập lô-cốt tại đầu cầu Bến Phân do Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân Nguyễn Văn Khối (bí danh Ba Khối) – Đội phó Đội Biệt động 67B Gò Môn chỉ huy là một điển hình của lòng quả cảm vì Tổ quốc quyết sinh.
Chuyện kể rằng: Vào giữa năm 1962, sau trận đánh bọn tâm lý chiến ở Xóm Mô (nay là khu vực giữa vành đai sân bay Tân Sơn Nhất với đường Quang Trung – đối diện cơ quan Quận ủy – UBND Quận), đồng chí Ba Khối đã tổ chức chia đơn vị thành 3 tổ, mỗi tổ 2 đồng chí để thực hiện tiếp kế hoạch đánh lô-cốt cầu Bến Phân. Đồng chí vạch trình tự tác chiến:
* Tổ thứ nhất lo cảnh giới cách cầu 500m được trang bị 4 quả lựu đạn, nếu địch đến thì ném lựu đạn chặn lại, kiềm chế chúng không cho tiến nhanh đến cầu.
* Tổ thứ hai xuống vàm rạch Cả Bốn làm một chiếc bè bằng cây chuối rồi đốt một cây đèn bão buộc chặt vào bè thả cho bè trôi theo nước lớn vào hướng cầu để nghi binh.
* Tổ thứ ba chỉ một mình đồng chí Ba Khối tiến vào đánh lô-cốt, kèm theo mang trên vai một gói thuốc nổ nặng 20kg, 1 quả thủ pháo và 4 quả lựu đạn.
Theo hiệp đồng, đồng chí Ba Khối tiếp cận cách lô-cốt chừng 25m thì thấy 4 tên lính gác đang lên lô-cốt nhắm theo ánh đèn bão trôi dưới sông, bắn loạn xạ và la lối inh ỏi. Đúng ý định, đồng chí Ba Khối bèn nhanh chóng bò lại phía sau cửa lô-cốt ném một trái thủ pháo vào rồi lập tức lao mình xuống sông bơi đến nhịp cầu gần đó, đặt khối thuốc nổ vào vị trí đã điều nghiên trước đó. Đồng chí nhanh nhẹn bơi vào bờ và điểm hỏa làm sập một nhịp cầu, diệt gọn 4 tên lính gác.
Sự thiệt hại này của địch đã làm tăng sự phấn khích của đồng bào ta bởi hàng ngày mỗi khi qua cầu là bị bọn lính ức hiếp... Đánh sập cầu còn là sự cắt đứt một hướng cơ động nhanh bằng cơ giới của địch khi tiến hành các cuộc càn quét cán bộ và đồng bào ta ở vùng căn cứ, tạo được thế đấu tranh chính trị của đồng bào thêm mạnh lên. Từ sau trận đánh, bọn địch khiếp sợ, bớt dọa dẫm, lục soát, xét hỏi bà con ta qua lại. Đồng bào ta thuận tiện tiếp tế cho cách mạng ở Chiến khu...
Có một chi tiết khá ấn tượng, bọn địch sau trận đánh sập cầu trở nên khiếp đảm, luôn khấn vái vong hồn 4 tên lính đã chết, rồi đổi tên là cầu “Tứ Quí”… Nhưng cho đến bây giờ và có thể là mãi mai sau, người dân Gò Vấp vẫn chỉ nhớ và gọi tên cầu là CẦU BẾN PHÂN, cùng những lời thơ dân gian giản dị của vùng đất Nam Bộ:
“…Sáng mai đi chợ Gò Vấp
Mua một khúc vải hết sáu chục đồng
Đem về cho con Tư nó đột, con Năm nó viền…”.
Hoặc:
“…Thợ nhuộm ở tại Hanh Thông
Tiếng thợ Gò Vấp, tục đồng biết danh…”.
Đó là những tên gọi, những dòng thơ cảm xúc mộc mạc, chân chất của người xưa nói về vùng đất nhân hậu, hiền hòa, yêu thiên nhiên và cần cù lao động, quanh năm làm lụng dệt vải, nuôi tằm, trồng dâu, trồng hoa, sống hài hòa gắn bó tình người - tình đất, sinh ra những tên gọi để đời bất khuất, cho mai sau kính trọng, tự hào…
Sưu tầm









